MÙA CHIẾT CÀNH
Chiết cành vào mùa xuân
Tức là phương pháp chiết cành tiến hành sau khi nhiệt độ mùa xuân bắt đầu ấm lại, khi mầm chưa nụ. Vật liệu gây giống chủ yếu là cành ngủ và cành già. Mùa xuân gây giống nên dùng đại đa số cây trồng phổ biến thích hợp.
Chiết cành vào mùa hạ
Tức là phương pháp chiết cành đối với cây trồng yêu cầu nhiệt độ không khí tương đối cao, cây trồng là cành xanh, cành non sinh ra trong năm.
Chiết cành vào mùa thu
Tức là phương pháp chiết cành vào tháng 9 – 10 lợi dụng cành cây ngưng sinh trưởng nhưng chưa bước vào thời kỳ ngủ. Cây trồng là thực vật thân cỏ lâu năm.
Chiết cành vào mùa đông
Tức là phương pháp chiết cành lợi dụng phá vỡ cành cây ngủ đông tiến hành trong phòng ấm, trại ấm, luống ấm.
CHỌN GHÉP CÀNH
Sau khi hái bông phải tránh ánh sáng và giữ ẩm. Chọn cành cây khỏe mạnh, mầm nách đầy đặn, không sâu bệnh, cắt bông chiết trưởng thành 8 – 12cm, đoạn nhỏ cỡ ba bốn mầm, cắt xiên phía dưới, miệng trên băng đầu trên giữ lại 1-2 lá.
Ghép cành non
Ghép cành non còn gọi là ghép cành xanh, là phương pháp dùng cành màu xanh bán gỗ hóa làm ghép cành để ương mầm. Cành non ương mầm yêu cầu phải có độ ẩm không khí tương đối cao, độ ẩm có thể thông qua tưới nước và che râm mát để điều tiết.
Ghép cành cứng
Ghép cành cứng là phương pháp dùng cành chín muồi hoàn toàn gỗ hóa làm cành ghép để ương mầm.
Ghép cành bằng rễ
Ghép cành bằng rễ là phương pháp dùng cây có cành khó sống, lợi dụng năng lực rễ của nó hình thành mầm bất định, lấy rễ làm ghép cành để gây sự sống. Đầu xuân hoặc cuối thu đều có thể tiến hành, nếu có phòng ấm, mùa đông cũng có thể làm.
XỬ LÝ GHÉP CÀNH
Xử lý ghép cành bao gồm xử lý ngâm nước, xử lý gia nhiệt, xử lý thuốc, xử lý cơ giới.
Xử lý ngâm nước
Khi thời kỳ ngủ ghép cành, ngâm cành vào chậu nước mấy giờ, để cho cành hút đủ nước, có thể nâng cao tỷ lệ sống.
Xử lý gia nhiệt
Bằng nhân tạo nâng cao nhiệt độ phần rễ tươi đoạn dưới ghép cành, giảm nhiệt độ phần nảy mầm. Thường thấy có điện nhiệt ổn sáng thức rễ (ấm luống thúc rễ)
Xử lý thuốc
Lợi dụng kích thích tố nguồn ngoài xử lý ghép cành, thúc đẩy sinh rễ. Thường có bột sinh rễ ABT,indoleacetic acid (IAA), indolebutyric acid (IBA), naphithalene acetic acid (NAA)
Xử lý cơ giới
Trước khi ghép cành tiến hành bóc xung quanh cành ghép, khắc tổn thương, phương pháp này ít dùng.
QUẢN LÝ SAU GHÉP CÀNH
Che râm mát
Sau khi kết thúc ghép cành, kịp thời làm khung che trên luống ghép, bên trên phủ một lớp mỏng, ngoài che thêm một lớp lưới râm mát. Lưới che râm mát có độ cao 1,2m – 1,5m.
Quản lý thủy phần
Căn cứ tình hình ẩm nhuận của đất, kịp thời tưới nước, có thể thông qua quan sát giọt nước trong màng nilong để phán đoán. Khi giọt nước trong màng ni lông tương đối ít hoặc không có phải mở màng che và tưới nước thấu luống.
Phòng trị bệnh sâu hại
Phòng trị bệnh sâu hại phải tuân thủ phương châm trị lý “phòng là chính, phòng trị tổng hợp”. Chủ yếu bao gồm phòng trị sinh vật, phòng trị hóa học, phòng trị nông nghiệp và phòng trị vật lý. Phòng trị tổng hợp chủ yếu bao gồm nội dung sau:
* Ngăn chặn và xóa bỏ. Phòng nguyên nhân bệnh mới xâm nhập vào khu không có bệnh, hoặc một khi đã vào phải lập tức phong tỏa tiêu diệt. Áp dụng dụng biện pháp kiểm dịch bệnh sâu hại,
* Miễn dịch. Áp dụng biện pháp: kháng bệnh lại tạo giống, làm tốt biện pháp chăm bón phòng bệnh, phòng trị sinh vật.
* Bảo vệ. Áp dụng biện pháp: phòng trị hóa học, làm tốt biện pháp chăm bón phòng bệnh, phòng trị sinh vật.
* Trị liệu, Sau khi cây trồng nhiễm bệnh, dùng thuốc hóa học có tính hút trong hoặc phương pháp vật lý để trị liệu cây bệnh. Áp dụng biện pháp phòng trị hóa học, phòng trị vật lý