Kỹ thuật luyện cá hương lên cá giống
Trước khi tiến hành san cá để ương thành cá giống cần luyện cá. Cá cần được luyện 5 – 7 ngày tuỳ theo khoảng cách đưa cá tới ao xa hay gần. Hàng ngày khuấy nước ao cho đục, cá tăng cường hoạt động. Những ngày sau dùng lưới dồn cá vào đầu ao, giữ cá trong lưới từ 5 – 10 phút thì thả ra. Mỗi ngày luyện một lần vào khi thời tiết mát (thường 8 – 9 giờ sáng).
Điều kiện môi trường ao ương cá hương lên cá giống
– Trong giai đoạn này cá đã lớn, vì thế cá đòi hỏi không gian hoạt động rộng, cho nên ao ương từ cá hương lên cá giống có diện tích từ 1.000m2 trở lên, độ sâu mực nước từ 1,2 – 1,5m, chất đáy là bùn cát hoặc cát bùn, độ dày bùn đáy từ 15 – 20cm.
Giai đoạn này cũng cần tẩy dọn như ao ương cá bột lên hương. Nhưng không cần bón lót cho các ao ương với cá Trắm cỏ, Tai tượng. Còn các ao ương cá khác vẫn duy trì bón lót nhưng số lượng phân bón giảm một nửa so với bón lót cho ao ương cá bột. Riêng ao ương cá Mè trắng lên giống vẫn duy trì bón lót như trước.
Mật độ thả cá
Đối với các loài như Mè vinh, He vàng, Sặc rằn và Hường, thả với mật độ 100 – 120con/m2.
Đối với các loài Chép, Trắm cỏ, Trôi, Mè trắng, Tai tượng, Trê vàng và Trê lại mật độ thả 50con/m2.
Chế độ chăm sóc và quản lý cá ương
Bón phân và cho cá ăn
Chế độ bón phân và cho ăn thay đổi để phù hợp với từng loài hoặc một nhóm loài tương tự.
– Đối với ao ương cá Mè trắng: do thức ăn chủ yếu của Mè trắng là tảo, nên vẫn duy trì chế độ bón phân, cho ăn như giai đoạn trước. Sau khi có được san thưa, có thể tăng thêm lượng phân gấp đôi và giảm lượng thức ăn tinh còn một nửa.
– Đối với ao ương cá Trắm: lúc này cá Trắm cỏ ăn tạp, ăn được thực vật mềm, nhỏ như bèo tấm, nên hàng ngày cho ăn thêm bèo tấm cho đủ lượng cá ăn.
Đối với cá Trắm cỏ, từ tuần thứ ba không cần bón phân cho ao, vẫn duy trì thức ăn tinh như trước nhưng số lượng tăng dần. Để tạo thuận lợi cho cá ăn và kiểm tra lượng thức ăn, dùng sàng đựng thức ăn cho cá. Sàng ăn được treo cách mặt nước từ 0,5 – 0,8m tuỳ theo độ sâu của ao.
Thức ăn được năm thành nắm đặt trong sáng. Số lượng sàng ăn tuỳ thuộc vào diện tích ao để tất cả cá nuôi trong ao đều được ăn thức ăn tinh. Sàng ăn được đặt cách bờ 1-2m và cách nhau 2030m tuỳ ao. Hàng ngày sàng ăn được rửa trước khi cho ăn và kiểm tra lượng thức ăn còn nhiều hay ít để còn điều chỉnh cho phù hợp.
– Đối với cá Trê, Chép: sang tuần ương thứ 3, cá Chép sống ở tầng đáy và ăn các sinh vật ở đáy (ấu trùng, côn trùng thuỷ sinh, giun…). Trong giai đoạn này cần tăng thêm lượng bột cá trong thành phần thức ăn tới 30%, còn lại là cám, bột ngô. Những nơi có nguồn trùng chỉ thì sử dụng cho cá Chép, cá Trê ăn có hiệu quả tốt. Thức ăn tinh được trộn với nước, năm thành từng nắm nhỏ, cho cá ăn ở ngay nền đáy ao ở nhiều vị trí trong ao hoặc có thể đặt trong sáng như đối với cá Trắm cỏ và có thể tiếp giáp với đáy ao.
Ao ương cá Chép trong giai đoạn này vẫn duy trì chế độ bón phân hữu cơ nhưng giảm đi chỉ còn một nửa so với giai đoạn trước và không bón phân vô cơ, còn ao ương cá Trê không bón phân.
Quản lý ao nuôi
Thường xuyên theo dõi tình hình sử dụng thức ăn của cá, sự hoạt động của cá. Đối với cá Tra, Trắm cỏ, phải thường xuyên vệ sinh sàng ăn, thường xuyên làm tốt công tác phòng trừ địch hại cho cá. Định kỳ cho nước mới vào ao để cải thiện môi trường sống của cá trong ao. Định kỳ kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá.
Trước khi thu hoạch 4-5 ngày, phải luyện cá vào các buổi sáng, buổi chiều, đồng thời ngừng cho cá ăn trước khi thu hoạch một ngày.