Tại sao phải phòng bệnh cho động vật thủy sản?
Động vật thủy sản sống trong nước nên vấn đề phòng bệnh không giống động vật trên cạn. Mỗi khi trong ao động vật thủy sản bị bệnh, không thể chữa từng con mà phải tính cả ao hay khối lượng cả đàn để chữa bệnh nên tính lượng thuốc khó chính xác, tốn kém nhiều, các loại thuốc chữa bệnh ngoài da cho động vật thủy sản thường phun trực tiếp xuống nước, chỉ áp dụng với các ao diện tích nhỏ, còn các thủy vực có diện tích mặt nước lớn không được.
Các loại thuốc chữa bệnh bên trong cơ thể động vật thủy sản thường phải trộn vào thức ăn, nhưng lúc bị bệnh, động vật thủy sản không ăn, nên dù có loại thuốc tốt cũng không có hiệu quả. Có một số thuốc khi chữa bệnh cho động vật thủy sản có thể tiêu diệt được nguồn gốc gây bệnh nhưng kèm theo phản ứng phụ.
Đặc biệt, những con khoẻ mạnh cũng phải dùng thuốc làm ảnh hưởng đến sinh trưởng. Vì vậy, các nhà nuôi trồng thủy sản luôn luôn đặt vấn đề phòng bệnh cho động vật thủy sản lên hàng đầu hay no một cách khác “phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần thiết –
Công tác phòng bệnh cho động vật thủy sản cần phải sử dụng các biện pháp tổng hợp như sau:
♦ Cải tạo môi trường nuôi động vật thủy sản.
♦ Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh cho động vật thủy sản – mầm bệnh.
♦ Tăng cường sức đề kháng cho cơ thể động vật thủy sản – vật chủ.
Biện pháp phòng, trị bệnh tổng hợp cho cá, tôm
Cải tạo và vệ sinh môi trường nuôi cá, tôm
Thiết kế xây dựng các trạm, trại nuôi động vật thủy sản phải phù hợp với điều kiện phòng bệnh cho chúng.
Địa điểm thiết kế xây dựng trạm, trại nuôi cá, tôm, trước tiện nguồn nước phải có quanh năm và nước sạch sẽ, không độc hại.
Không có các nguồn nước thải đổ vào, nhất là nguồn nước thải từ nhà máy công nghiệp, nếu có phải tính đến khả năng cải tạo để tránh động vật thủy sản bị dịch bệnh và chết ngạt bởi thiếu oxy.
Xây dựng hệ thống công trình nuôi cá, tôm giữa các ao nên có hệ thống mương dẫn nước vào thoát nước ra độc lập. Như vậy giá trị công trình có cao hơn nhưng phù hợp với công tác phòng và trị bệnh cho cá, tôm. Mỗi khi có một ao cá, tôm bị bệnh, dễ dàng cách ly không lây nhiễm bệnh cho các ao khác.
Đối với các công trình xây dựng hồ chứa nước, khi thiết kế cần tính toán kết hợp giữa thủy lợi và nuôi động vật thủy sản, cần có các công trình phụ trợ chắn giữ cá tôm, thu hoạch cá tôm, đồng thời chú ý tạo được nguồn nước dẫn vào hồ ít nguồn bệnh và ít độc hại cho cá tôm.
Nên có một diện tích nhất định để chứa các chất thải sau mỗi chu kỳ nuôi, ngăn chặn các mầm bệnh lan truyền ra xung quanh. Đối với các khu vực nuôi thâm canh (công nghiệp) cần phải xây dựng ao chứa (lắng và lọc) diện tích chiếm từ 15 – 20% và ao xử lý nước thải (10 – 15% diện tích).
– Cải tạo ao đầm và dụng cụ trước khi ương nuôi động vật thủy sản.
– Tẩy dọn ao bao gồm tháo cạn, nạo vét bùn dưới đáy ao, tu sửa lại bờ mương máng, dọn sạch cỏ rác, phơi khô đáy ao. sau đó dùng các loại hoá chất để khử trùng ao với mục đích:
– Diệt địch hại và sinh vật là vật chủ trung gian, sinh vật cạnh tranh thức ăn của tôm, cá… như các loài cá dữ, cá tạp, giáp xác, côn trùng, nòng nọc, sinh vật đáy…
– Diệt sinh vật gây bệnh cho động vật thủy sản như các giống loài vi sinh vật: vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào và các loài ký sinh trùng.
– Cải tạo chất đáy làm tăng các muối dinh dưỡng giảm chất độc tích tụ ở đáy ao.
– Đắp lại lỗ rò rỉ, tránh thất thoát nước trong ao, xoá bỏ nơi ẩn nấp của sinh vật hại cá, tôm.
* Các biện pháp khử trùng
Dùng vôi để tẩy ao: ao sau khi đã tháo cạn nước dùng vôi sống, vôi bột hoặc vôi tôi, liều lượng dùng phụ thuộc vào điều kiện môi trường, thông thường dùng 1.000 – 1.500kg/ha. Với bột vẩy đều khắp ao, vôi sống thì cho vào các hố giữa ao, vôi tan ra và dùng gáo cán gỗ múc rải khắp đáy ao. Sau khi bón vội một ngày cần dùng bàn trang hoặc bừa đảo đều rồi phơi nắng một tuần mới thả cá, tôm vào nuôi. Trong trường hợp ao quá trũng không tháo cạn được thì cho vôi xuống ao còn đầy nước, nếu nước sâu 1m, dùng khoảng 200kg-220kg vôi/ha.
Nếu đáy ao xì phèn thì phải rửa chua 3-5 lần, sau đó bón vôi khắp đáy ao và phơi khô. Cả hai phương pháp đều có khả năng tiêu trừ mầm bệnh và địch hại. Phương pháp sau tác dụng triệt để hơn phương pháp trước, lúc tháo nước vào ao ương nuôi, sinh vật gây bệnh và địch hại có thể theo vào.
Dùng vôi sống khử trùng ao không những tiêu diệt được mầm bệnh mà còn có tác dụng cải tạo đáy ao, pH của nước ổn định, làm giàu chất dinh dưỡng trong môi trường nuôi. Đối với lồng bè nuôi tôm, có thể dùng nước vôi loãng, quét trong và ngoài để khử trùng. Vôi sống dễ kiếm, rẻ tiền và có hiệu quả kinh tế cao.
Dùng Clorua vôi Ca(OCl)2 tẩy ao, dụng cụ nuôi: liều lượng dùng căn cứ vào lượng nước trong ao, thường dùng 50gam/m3 (50ppm). Cho Ca(OCl)2 vào thùng gỗ để cho tan, sau đó rắc xuống ao và dùng thuyền đưa nước để Ca(OCl)2 trộn đều phát huy tác dụng tốt hơn. Sau khi rắc xuống một tuần, có thể thả cá tôm vì độc lực đã giảm. Các bể, dụng cụ ương nuôi ấu trùng khử trùng bằng Ca(OCl)2 nồng độ 200-220ppm (200220 gam/m3 nước) thời gian ngâm qua 1 đêm. Ca(OCl)2 có khả năng diệt vi khuẩn, sinh vật gây bệnh, diệt cá tạp, nòng nọc, trai ốc, côn trùng.
Ca(OCl)2 có tác dụng diệt trùng, diệt tạp gần như vôi nhưng dùng số lượng ít, độc lực giảm nhanh nên không có tác dụng cấp chất dinh dưỡng cho thủy vực nuôi cá.
2 Ca(OC1)2 + 2H20 = Ca(OH)2 + 2 HOCI +CaCl2
HOCI = H+ + OCI
Lượng vôi cải tạo và khử trùng ao:
Dùng quả bồ hòn, rễ cây thuốc cá
Dùng quả bồ hòn và cây thuốc cá diệt tạp hiệu quả cao vì trong chúng có độc tố phá vỡ hồng cầu của cá tạp. Ao đã tát cạn dùng 40kg/ha, nếu ao nước sâu 1m dùng 60 – 75kg/ha. Rễ cây thuốc cá dùng 4g khô/m3 nước.
Vệ sinh môi trường nuôi Vệ sinh môi trường nuôi bằng cơ học
Trong quá trình nuôi tôm, cá thương phẩm, thức ăn thừa và phân tôm cá đã gây ô nhiễm môi trường nuôi, đặc biệt là thời gian cuối chu kỳ nuôi. Những sản phẩm khí độc như: H2S, NH, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của tôm, cá. Biện pháp dùng hệ thống sục khí để tăng cường hàm lượng oxy hoà tan trong ao, đặc biệt là tầng đáy, tạo điều kiện cho vi sinh vật hiếu khí phát triển sẽ làm giảm thiểu lượng khí độc trong ao. Sục khí mạnh cũng sẽ làm các khí độc thoát ra khỏi ao, đồng thời gom các chất thải trong ao vào một nơi nhất định, giúp si phông đáy rút các các chất thải ra khỏi ao nuôi tốt hơn.
Vệ sinh môi trường bằng hoá dược
Vệ sinh môi trường nước nuôi tôm, cá thường xuyên bằng vôi bột (vôi nung để tả) tuỳ theo pH của nước ao. Vôi có tác dụng cung cấp Ca++ cho ao, ổn định pH, khử trùng làm sạch nước ao. Nếu pH < 7 dùng 2kg vôi/100m3; pH từ 7 – 8,5 có thể dùng 1kg vôi/100m3, định kỳ bón từ 2 – 4 lần/tháng, pH > 8,5 dùng bột đá vôi (CaCO3) để bón là 1kg/100m3.
– Đối với ao nuôi tôm thâm canh có thể dùng vôi đen – Dolomite (Ca và Mg). Trong quá trình nuôi tôm, cá nên thường xuyên bón vôi 2 – 4 lần/tháng với liều lượng 1 – 2kg/100m3 nước (100 – 200kg/ha với độ sâu 1m).
Dùng một số hoá dược có tính oxy hoá mạnh phun vào ao: thuốc tím (KMnO4) nồng độ 2-5g/m3 hoặc Benzalkonium Chloride (BKC) nồng độ từ 0,1 – 0,5g/m3 để tham gia vào quá trình oxy hoá các khí độc (H2S, NH3) thành các vật chất đơn giản không độc.
Vệ sinh môi trường bằng sinh học
Khi nuôi cá, tôm năng suất cao có thể dùng một số các chế phẩm sinh học để cải thiện môi trường nuôi cá, tôm với mục đích:
– Cải thiện chất nước, ổn định pH, cân bằng hệ sinh thái trong ao.
– Loại các chất thải chứa nitrogen trong ao nuôi, những chất thải này gây độc cho động vật thủy sản. Sau đó chúng được chuyển hóa thành sinh khối làm thức ăn cho các động vật thủy sản.
– Giảm bớt bùn ở đáy ao.
– Giảm các vi khuẩn gây bệnh như: Vibrio spp, Aeromonas spp và các loại virus khác như MBV, đốm trắng, đầu vàng…
– Hạn chế sử dụng hóa chất và kháng sinh cho tôm nuôi.
Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh cho cá, tôm Khử trùng cơ thể cá, tôm
Áo đã được tẩy dọn sạch sẽ và sát trùng đáy ao, nước mới tháo vào ao cũng đã lọc kỹ nhưng cá giống có thể mang mầm bệnh vào ao hồ. Do vậy, nguồn cá, tôm giống thả vào thủy vực cần tiến hành kiểm dịch, nếu có sinh vật gây bệnh ký sinh trên cơ thể cá, tôm thì tuỳ theo kết quả kiểm tra mà chọn thuốc trị bệnh cho thích hợp.
Khử trùng thức ăn và nơi cho ăn.
Đối với thức ăn là thực vật thủy sinh thượng đẳng, dùng Ca(OCl)2 6ppm ngâm trong 20 phút. Thức ăn là động vật nên rửa sạch và dùng thức ăn còn tươi, tốt nhất là nấu chín. Phân hữu cơ cần ủ với 1% vội sau đó mới sử dụng.
Xung quanh nơi cho động vật thủy sản ăn, thức ăn thừa thối rữa gây nhiễm bẩn, tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh phát triển. Do đó thức ăn thừa phải vớt bỏ, rửa sạch máng ăn và thường xuyên khử trùng địa điểm cho ăn. Tốt hơn hết thường xuyên dùng vôi nung hoặc Currua vôi Ca(OCl)2 treo 2 – 3 túi xung quanh chỗ cho ăn để tẩy trùng. Liều lượng 2 – 4kg vôi nung/túi hoặc 100 – 200g Clorua vôi/túi.
Khử trùng dụng cụ
Sinh vật gây bệnh có thể theo dụng cụ lây lan bệnh từ ao bể bị bệnh sang ao, bể cá, tôm khoẻ. Vì vậy, dụng cụ của nghề nuôi nên dùng riêng biệt từng ao, bể. Nếu thiếu thì sau khi sử dụng xong phải có biện pháp khử trùng mới đem dùng cho ao, bể khác.
Dụng cụ đánh bắt, dụng cụ bằng gỗ, quần áo khi lội ao phải dùng dung dịch Ca(OCl)2 200ppm để ngâm ít nhất một giờ và rửa sạch mới dùng.
Dùng thuốc phòng ngừa trước mùa phát triển bệnh
Đại bộ phận các loại bệnh của cá, tôm phát triển mạnh trong các mùa vụ nhất định, thường mạnh nhất vào mùa xuân đầu hè, mùa thu đối với miền Bắc, mùa mưa đối với miền Nam, do đó phải có biện pháp dùng thuốc phòng ngừa dịch bệnh, hạn chế được tổn thất.
Dùng thuốc để phòng các bệnh ngoại ký sinh: trước mùa phát sinh bệnh dùng thuốc rắc khắp ao để phòng ngừa thường đạt kết quả tốt. Ngoài ra còn có thể treo túi thuốc xung quanh nơi cho ăn hình thành một vùng khử trùng các sinh vật gây bệnh
Để đạt hiệu quả cao cần chú ý: nồng độ thuốc xung quanh nơi cá, tôm ăn vừa phải, nếu quá cao cá, tôm sẽ không đến ăn nhưng ngược lại nếu nồng độ quá thấp cá, tôm đến ăn nhưng không tiêu diệt được sinh vật gây bệnh. Do đó, sau khi treo túi thuốc cần theo dõi, nếu không thấy cá đến ăn chứng tỏ nồng độ quá cao cần giảm xuống hoặc bớt túi thuốc.
Dùng thuốc phòng các bệnh nội ký sinh: thuốc để phòng ngừa các loại bệnh bên trong cơ thể cá, tôm phải qua đường miệng vào ống tiêu hoá. Nhưng với cá, tôm không thể cưỡng bức nên trộn vào thức ăn để cho ăn tuỳ theo yêu cầu phòng ngừa từng loại bệnh mà tính số lượng thuốc. Số lần cho ăn và chọn loại thuốc nào cho thích hợp để có hiệu quả cao. Dùng thuốc để phòng ngừa các bệnh bên trong cơ thể cần lưu ý.
Tiêu diệt vật chủ cuối cùng ở trên cạn
Một số sinh vật ký sinh giai đoạn vật chủ trung gian là động vật không xương sống thủy sinh và cá. Vật chủ cuối cùng là động vật trên cạn như chim, người và một số động vật có vú khác. Thường dùng các biện pháp săn bắn, phá tổ của chim ăn cá, săn bắt thú ăn cá.
– Dọn sạch cỏ rác, san bằng quanh ao để không còn nơi ẩn nấp và đẻ trứng.
– Xử lý nguồn phân hữu cơ theo đúng kỹ thuật trước khi bón xuống ao ương nuôi cá.
Tăng cường sức đề kháng cho cá, tôm
Nguyên nhân gây bệnh xâm nhập vào những cơ thể có phát sinh ra bệnh hay không còn tuỳ thuộc vào yếu tố môi trường và bản thân cơ thể vật chủ.
Nếu vật chủ có sức đề kháng tốt, có khả năng chống đỡ lại yếu tố gây bệnh nên không mắc bệnh hoặc bệnh nhẹ. Ngược lại, khả năng chống đỡ yếu, dễ dàng nhiễm bệnh. Do đó, một trong những khâu quan trọng để phòng bệnh cho động vật thủy sản là phải tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản.
Kiểm tra chất lượng và dịch bệnh cá, tôm trước khi thả
Các giống loài động vật thủy sản từ các nước nhập vào nước ta cũng như động vật thủy sản của nước ta xuất ra nước ngoài. Cá, tôm chuyển từ vùng này qua vùng khác phải tiến hành kiểm dịch. Khi có bệnh phải dùng các biện pháp xử lý nghiêm túc để khỏi mang sinh vật gây bệnh vào nước ao cũng như nước ngoài hay từ địa phương này qua địa phương khác. Có một số động vật thủy sản khi bị bệnh sau khi thả ra nuôi trong các thủy vực mặt nước lớn sẽ lây lan bệnh mà không thể có biện pháp chữa trị hiệu quả.
Cải tiến phương pháp quản lý, nuôi dưỡng cá, tôm
– Thả ghép các loài cá và mật độ thả thích hợp: Đứng về góc độ phòng bệnh cho cá, nếu trong cùng một thủy vực nuôi ghép nhiều loài cá, mật độ của từng loài cá sẽ thưa hơn, thuận lợi cho phòng bệnh, đồng thời mỗi loài cá có khả năng miễn dịch đối với một số sinh vật gây bệnh nên điều kiện để phát sinh ra bệnh trong thủy vực ghép ít hơn ao nuôi chuyên một loài với mật độ dày.
– Nuôi luân canh các động vật thủy sản: trong một ao nuôi hay một khu vực nuôi động vật thủy sản, quá trình nuôi đã tích luỹ nhiều chất thải và các mầm bệnh. Những chất thải và các mầm bệnh này sẽ ảnh hưởng và gây bệnh cho các chu kỳ nuôi tiếp. Dựa vào các đặc tính mùa vụ của các đối tượng nuôi, chúng ta có thể nuôi luân canh trên một ao nuôi, giúp cho các đối tượng nuôi mới không bị nhiễm những mầm bệnh của các chu kỳ nuối trước và chúng có thể tiêu diệt được các mầm bệnh đó. Như một ao nuôi tôm nhiều vụ sẽ tích lũy nhiều mầm bệnh của tôm ở đáy ao, nếu chúng ta khi nuôi tôm tẩy dọn áo không sạch thì dễ dàng mắc bệnh. Nhưng sau một chu kỳ nuôi tôm, chúng ta nuôi cá Rô phi hoặc trồng rong câu, chúng có thể dọn và làm giảm các mầm bệnh ở đáy ao, vì những mầm bệnh virus ở tôm không gây bệnh cho cá Rô phi và rong câu.
– Cho cá, tôm ăn theo phương pháp “4 định”; thực hiện biện pháp kỹ thuật này, cá tôm ít bệnh tật, nuôi cá đạt năng suất cao:
• Định chất lượng thức ăn;
• Định số lượng thức ăn;
• Định vị trí để cho ăn;
• Định thời gian cho ăn.
Các cơ sở nuôi cá, tôm thường dùng phân hữu cơ bón xuống thủy vực bổ sung chất dinh dưỡng để cho sinh vật phù du phát triển, cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên cho cá tôm.
Phân bón phải ủ kỹ với 1% vôi nung và bón liều lượng thích hợp, nếu không sẽ làm xấu môi trường nước, ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể cá tôm. Thực hiện biện pháp kỹ thuật cho cá tôm ăn theo “4 định” tuỳ từng mùa vụ, chất nước, điều kiện môi trường và trạng thái cơ thể cá tôm… mà có sự thay đổi cho thích hợp.
– Thường xuyên chăm sóc quản lý: hàng ngày, nên có chế độ thăm ao, theo dõi hoạt động của cá để kịp thời phát hiện bệnh và xử lý ngay không cho bệnh phát triển và kéo dài. Cần quan sát biến đổi chất nước, bổ sung nguồn nước mới đảm bảo đầy đủ oxy và hạn chế các chất độc. Để tạo môi trường sạch sẽ, cần dọn sạch cỏ tạp, tiêu trừ địch hại và vật chủ trung gian, vớt bỏ xác sinh vật và cá chết, các thức ăn thừa, tiêu độc nơi cá đến ăn để hạn chế sinh vật gây bệnh sinh sản và lây truyền bệnh.
– Thao tác đánh bắt, vận chuyển nên nhẹ nhàng, tránh sấy sát cho cá, tôm: trong nước luôn luôn tồn tại các sinh vật gây bệnh cho cá, vì vậy trong quá trình ương nuôi vận chuyển đánh bắt thao tác phải thật nhẹ nhàng, nếu để cá bị thương là điều kiện thuận lợi cho sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể.
Chọn giống cá, tôm có sức đề kháng tốt
Qua thực tiễn sản xuất, thấy có hiện tượng một số ao nuôi cá bị bệnh, đa số cá trong ao bị chết nhưng có một số con có khả năng miễn dịch một số bệnh và sinh trưởng rất nhanh qua đó chứng tỏ sức đề kháng của cá trong cùng một giống có sự sai khác rất lớn, từ đó người ta đã lợi dụng đặc tính này chọn giống cá có sức đề kháng cao chống được bệnh.
Chọn giống cá tôm miễn dịch tự nhiên
Cá sống trong các thủy vực tự nhiên cũng như trong ao nuôi có lúc xảy ra dịch bệnh làm cho đa số cá có thể chết nhưng cũng có một số ít sống sót do bản thân có khả năng sản sinh ra kháng thể có tác dụng chống lại tác nhân gây bệnh tạo được tính miễn dịch. Người ta đưa số cá này nuôi và nhân đàn với mục đích tạo được giống cá nuôi có khả năng chống đỡ với bệnh tật. Chalor Limsuwan (2000) đã đề xuất nên dùng tôm sú bố mẹ đánh bắt ở độ sâu 60-120m, kích thước từ 26-30cm, chúng ít bị nhiễm bệnh đốm trắng (WSBV) hơn tôm đánh bắt ở vùng nước nông ven bờ.
Cho lại tạo để chọn giống khoẻ có sức đề kháng cao
Ứng dụng đặc tính di truyền miễn dịch của cá người ta tiến hành lại tạo để có giống cá mới, có sức đề kháng cáo, chống đỡ các loại bệnh tật. Nước ta các nhà khoa học cho lại tạo các loại hình cá Chép với nhau, cá Chép Việt Nam với Chép Hungary, cá Chép Indonesia tạo giống cá Chép V1 với con lại có sức đề kháng tốt hơn cá bố mẹ.
Gây miễn dịch nhân tạo
Người ta dùng vacxin tiêm, trộn vào thức ăn của cá, tôm làm cho cơ thể tạo ra được khả năng miễn dịch làm vô hiệu hoá tác nhân gây bệnh. Tiêm vacxin cho cá có tác dụng phòng bệnh. Cá sống trong môi trường khi bị nhiễm một loại bệnh nào đó có một quá trình dài được ủ bệnh nên cơ thể cá có khả năng sản sinh ra kháng thể và kháng nguyên.
Nguyên tắc trị bệnh
Việc trị bệnh dựa trên việc chẩn đoán bệnh chính xác cùng với sự tính toán kinh tế để quyết định phương án chữa trị cho thích hợp. Việc quyết định cách trị bệnh nên dựa trên kết quả xét nghiệm trên kính hiển vi tại chỗ hay tại các cơ quan chuyên môn có mẫu hướng dẫn hoặc dựa trên kinh nghiệm của bản thân.
Trước khi trị bệnh cần lưu ý một số vấn đề sau:
– Về chẩn đoán: việc chọn hoá chất hay thuốc để trị bệnh cho cá cần phải dựa vào sự chẩn đoán chính xác. Việc trị bệnh thất bại phần lớn là do chẩn đoán sai nguyên nhân gây bệnh hoặc dùng thuốc và hoá chất không đúng. Ghi nhận đúng dấu hiệu ban đầu của bệnh như khả năng bắt mồi và các hoạt động khác của cá.
– Về môi trường nước: các yếu tố như nhiệt độ, oxy hoà tan, pH, hàm lượng hữu cơ, thực vật thủy sinh trong ao… là các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc.
– Liều lượng thuốc: hầu hết các hoá chất và thuốc dùng trị bệnh cho cá đều độc nếu không dùng đúng liều lượng. Liều lượng của thuốc còn tuỳ thuộc vào loài cá, cỡ cá, chất lượng nước và cách trị liệu. Khi dùng thuốc để ngâm hoặc tắm cho cá thì nồng độ thuốc càng cao (trong phạm vi cho phép) thời gian tác dụng càng ngắn.
Ví dụ: dùng Xanh malachite để trị bệnh ngoại ký sinh trùng cho cá giống ở nồng độ 1 – 2g/m3 nước trong vòng 30 phút, còn khi dùng ở nồng độ 0,1 – 0,2g/m3 nước thì trong thời gian kéo dài hơn. Tốt nhất, nên thử nghiệm nồng độ thuốc với cá quy mô nhỏ, các thử nghiệm như vậy sẽ cung cấp những giá trị chính xác về tác dụng của thuốc.
– Loài cá: những loài cá khác nhau và cỡ cá khác nhau thì sức chịu đựng đối với thuốc sẽ khác. Cần theo dõi chặt chẽ tình trạng của cá trước khi xuất hiện bệnh, cách chuẩn bị và quản lý ao nuôi…
Chú ý: cùng loài cá, cá càng lớn sức chịu đựng của cá đối với thuốc càng cao, cá có vẩy khả năng chịu đựng tác dụng của thuốc cao hơn cá không vẩy và cá sống đáy chịu tốt hơn cá sống tầng mặt.
Ví dụ: cùng cỡ cá hương (2 – 3cm) khi nồng độ muối là 4% (4kg/100 lít nước) thì cá Rô phi sống được 2 giờ 30 phút còn cá Mè trắng chỉ sống trong vòng một giờ.
Phương pháp trị bệnh
Phương pháp dùng thuốc khác nhau tốc độ hấp thu sẽ khác nhau nên nồng độ thuốc trong cơ thể sẽ khác dẫn đến ảnh hưởng tác dụng của thuốc. Phòng trị các bệnh bên ngoài cơ thể động vật thủy sản thường phát huy tác dụng cục bộ của thuốc còn đối với phòng trị các bệnh bên trong cơ thể động vật thủy sản lại dùng phương pháp tác dụng hấp thụ của thuốc. Để trị bệnh cho cá và các động vật thủy sản người ta dùng các phương pháp sau đây:
Phương pháp tắm cho cá
Dụng cụ tắm cho cá có thể là bể xây, giai chứa cá, bể lót, nilon, thau. Tập trung cá, pha thuốc nồng độ theo quy định, tắm cho cá trong thời gian ngắn để trị các bệnh bên ngoài cơ thể. Phương pháp này có ưu điểm là tốn ít thuốc, không ảnh hưởng đến sinh vật phù du là thức ăn của cá trong thủy vực, nhưng muốn trị bệnh phải kéo lưới bắt cá, cá dễ bị trầy xước, khó đánh bắt chúng trong thủy vực nên tiêu diệt bệnh cho cá khó triệt để.
Phương pháp này thích hợp lúc chuyển cá từ ao này sang ao khác, lúc cần vận chuyển đi xa hoặc con giống trước khi thả nuôi ở các thủy vực cần sát trùng tiêu độc. Tuỳ từng loại bệnh, loại thuốc sử dụng mà quyết định thời gian dài ngắn thích hợp
Phương pháp phun thuốc xuống ao
Dùng thuốc phun xuống ao tạo môi trường cá sống có nồng độ tác dụng thuốc dài. Sử dụng phổ biến cho ao nuôi, hay đầm nuôi có diện tích lớn. Phương pháp này tuy tốn thuốc nhưng tiện lợi, dễ tiến hành, trị bệnh kịp thời không tốn nhân công và ngư lưới.
Phương pháp phun thuốc xuống ao có thể tiêu diệt sinh vật gây bệnh ở các cơ quan bên ngoài của cá và sinh vật gây bệnh tồn tại trong thủy vực. Tuy nhiên có một số thủy vực không có hình dạng nhất định, thường thì thể tích không chính xác, gây phiền phức cho việc định lượng thuốc dùng.
Ngoài ra có một số phạm vi an toàn nhỏ, sử dụng không quen có thể ảnh hưởng đến động vật thủy sản, liều lượng thuốc trung bình cao. Dùng một số thuốc phun xuống ao có thể tiêu diệt sinh vật làm nghèo nguồn thức ăn tự nhiên trong thủy vực. Thuốc dùng tương tự như tắm nhưng nồi độ giảm đi 10 lần.
Bôi thuốc lên cơ thể cá
Cá bị cảm nhiễm một số bệnh ngoài da, vây… thường dùng thuốc có nồng độ cao bối trực tiếp vào vết lở loét hay nơi có ký sinh trùng để giết sinh vật gây bệnh: do trùng , neo, trùng bánh xe, giun tròn ký sinh… Phương pháp này có thể dùng lúc đánh bắt cá bố mẹ để kiểm tra hay cho đẻ nhân tạo hoặc phòng trị bệnh lở loét nhiễm trùng cho Ba ba. Ưu điểm ít thuốc, độ an toàn cao, thuận lợi và ít bị ảnh hưởng đến các sinh vật khác trong ao.
Phương pháp ngâm dầm xuống ao
Dùng một số cây thuốc nam ngâm xuống nhiều nơi trong ao hay ngâm vào gần bờ, đầu gió, nhờ gió đẩy lui ra toàn bộ ao, sau đó vớt dầm ra khỏi ao. Phương pháp này có thể tiêu diệt sinh vật gây bệnh trong thủy vực và sinh vật gây bệnh lên ngoài cơ thể cá.
Trong thực tiễn, sản xuất nghề cá thường dùng một số cây phòng bệnh cho cá. Ở nước ta, người ta thường dùng lá cây xoan bón xuống làm phân đồng thời cũng có tác dụng phòng và trị bệnh ký sinh trùng: trùng bánh xe (Trichodina), trùng mỏ neo (Lernaea) ký sinh trùng trên cá, đặc biệt là khi ương nuôi cá giống hoặc dùng cây thuốc cá để tiêu diệt các loài cá tạp ở trong ao.
Phương pháp treo túi
Đây là phương pháp sử dụng chủ yếu đối với các ao có nước vào ra, nuôi cá trên lồng bè. Xung quanh giàn cho ăn treo các túi thuốc để tạo ra khu vực sát trùng. Phương pháp này thích hợp với việc phòng trị bệnh lúc bệnh mới phát sinh.
Nhưng chỉ tiêu diệt được sinh vật gây bệnh ở trong vùng có cá hay lui tới kiếm mồi. Cần chọn liều lượng thuốc cao nhất nhưng không ức chế cá tìm đến gần nguồn thức ăn để bắt mồi. Nồng độ thuốc yêu cầu từ 2 – 3 giờ thường treo liên tục trong vòng 3 ngày.
Chế biến thuốc vào thức ăn
Dùng thuốc hoặc vacxin trộn vào thức ăn, sau đó trộn thêm chất kết dính làm cho thuốc bám vào thức ăn, sau đó đóng thành viên để cho cá ăn theo liều lượng. Thuốc cũng có thể dùng để tẩm vào thức ăn, tuy nhiên phương pháp này có thể gây ô nhiễm môi trường ao nuôi và dễ gây kháng thuốc nếu liều dùng không đúng. Phương pháp này dùng cho việc trị các bệnh ký sinh trùng bên trong cơ thể cá. Lúc cá bị bệnh nặng thậm chí ngừng ăn nên hiệu quả trị liệu sẽ thấp, chủ yếu là phòng bệnh.
Tiêm thuốc
Dùng thuốc tiêm trực tiếp vào trong xoang bụng hoặc cơ của cá và động vật thủy sản kích thước lớn. Phương pháp này liều lượng chính xác, thuốc hấp thụ dễ nên tác dụng nhanh, nhưng lại khó khăn vì phải bắt từng con cá bố mẹ hay tiêm vacxin cho cá hoặc những lúc cá bị bệnh nặng, mà số lượng cá bị bệnh nặng không nhiều hay một số giống loài thủy sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao.