[toc]
Trong Bát tự học, Thổ được chia thành 2 trường hợp: Thổ ẩm và Thổ khô. Trong Thiên can, Mậu Thổ có tính khô, Kỷ Thổ có tính ẩm. Trong Địa chi, Thìn, Sửu Thổ có tính khô còn Mùi, Tuất Thổ có tính ẩm.
Thổ ẩm có 2 chức năng, một là sinh Kim. Trong mối quan hệ Ngũ hành, Thổ sinh Kim. Nhưng trên thực tế, chỉ có Thổ ẩm mới có được Ta chức năng đó, Thổ khô không thể sinh Kim được. Nếu như sinh Kim Bà cũng chỉ là về mặt hình thức. Từ đó, Kỷ Thổ có thể sinh Kim. Hai là Bá Thổ ẩm có thể tản nhiệt. Mệnh bát tự của một người có thiên hướng quá nóng, có thể dùng Kỷ Thổ để bổ cứu.
GIỮA NGŨ HÀNH VÀ NGŨ TINH Dịch học bắt nguồn từ Hà đô, Lạc thư. Đây là hình vẽ sao của thời kỳ thượng cổ, do đó tri thức trong Dịch học cũng bắt nguồn từ tinh tượng, ví như học thuyết Ngũ hành. Người xưa cho rằng vạn vật trong vũ trụ tuy có thuộc tính khác nhau nhưng đều có thể quy nạp vào 5 loại lớn, đồng thời lần lượt đối ứng với ngũ tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong hệ Mặt trời. Người xưa cho rằng, 5 loại vật chất này hình thành quan hệ giữa thiên, địa, nhân. Ví như sao Mộc trên trời có sự biến hóa, tương ứng với những vật bằng gỗ trên mặt đất và đức “nhân” của con người. |
Đặc tính lớn nhất của Kỷ Thổ là tưới nhuẫn, bao dung, có thể dung nạp các loại Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Điều này được phản ánh trên tính cách của người Kỷ Thổ, họ thích hợp với việc hoạch định kế hoạch. Do thuộc tính ấm, người Kỷ Thổ có sự đa nghi, lớn, khả năng phán đoán nhạy bén, thường cẩn trọng trong việc đối nhân xử thế. Chính vì vậy, họ thường đánh mất cơ hội, khó có thể để được địa vị cao.
Kỷ Thổ cần phối hợp với Bính Hỏa và Quý Thủy. Người Kỷ Thổ sinh vào mùa hạ, cần có Quý Thủy tưới nhuận. Người Kỷ Thổ sinh vào tháng mùa đông cần có Bính Hỏa sưởi ấm. Do Kỷ Thổ vốn là Thổ ẩm ướt. Nếu có cần Thủy, phải là loại nước sương buổi sớm, tránh gắn Thủy của sông, tức Nhâm Thủy. Nhiều trường hợp mệnh Kỷ Thổ gặp họa sông nước chính là do trong mệnh bát tự có nhiều Nhâm Thủy.
Trong những minh tinh nổi tiếng, Châu Nhuận Phát có nhật can Ba là Kỷ Thổ.